Hầu hết các bác sĩ phụ khoa đều chỉ định phẫu thuật cắt bờ tự do để giải quyết vấn đề thẩm mỹ vùng kín. Trong một cuộc khảo sát, phần lớn (52.7%) các bác sĩ phẫu thuật lựa chọn phương pháp phẫu thuật này, kỹ thuật wedge chỉ đứng thứ hai với 36.1% số ca thực hiện.
Mặc dù kỹ thuật tạo hình bờ tự do ít xuất hiện những biến chứng liên quan tới liền vết mổ hơn, nhưng chúng để lại một đường sẹo dài ngay vị trí bờ tự do đôi khi gây co kéo vết mổ và đau kéo dài, đặc biệt khi quan hệ. Kỹ thuật wedge cũng để lại sẹo tương tự nhưng nằm ngang thay vì nằm dọc như cắt bờ tự do. Tuy nhiên tình trạng đau vết mổ sau phẫu thuật ở kỹ thuật này là cực kỳ hiếm, và ưu điểm nữa là khả năng ‘giấu’ đường sẹo đi khéo léo. Sau 6 tháng thường hiếm khi thấy được sẹo ở cả 2 kỹ thuật này.
Tùy thuộc mong muốn bệnh nhân, tình trạng sức khỏe như mức độ và vị trí của môi bé bị phì đại cũng như ưu nhược điểm của từng kỹ thuật để lựa chọn sao cho phù hợp. Nói chung, cắt bờ tự do là con đường thuận tiện nhất đạt đến hình thể giải phẫu mà bệnh nhân mong muốn, nhưng chúng thường để lại sẹo và/hoặc bờ tự do không tự nhiên. Nhưng để nói, kỹ thuật wedge không thể giảm môi âm hộ một cách toàn diện như cắt bờ tự do được.
Hầu hết phụ nữ đều muốn loại bỏ phần niêm mạc tăng sắc tố, nhưng một số lại thích giữ phần niêm mạc này để trông tự nhiên hơn và chỉ yêu cầu bác sĩ giảm phần môi bé dư thừa. Tuy nhiên, kỹ thuật tạo hình bờ tự do mới có thể cắt bỏ nhiều và chính xác hơn so với wedge.
Các bằng chứng mới ủng hộ việc sử dụng sóng cao tần trong giảm môi âm hộ để cải thiện tính an toàn, độ chính xác, chức năng và thẩm mỹ. Tuy nhiên kỹ thuật này cần được thực hiện bởi Bs đã được đào tạo bài bản và có kinh nghiệm.
Tạo hình môi âm hộ, đôi khi được gọi là giảm môi âm hộ, là một phẫu thuật phụ khoa nhằm giảm kích thước và đôi khi kết hợp với tạo hình môi lớn hoặc môi bé. Đây hiện là một trong những phẫu thuật thẩm mỹ vùng kín được thực hiện nhiều nhất theo thống kê hàng năm. Nếp gấp da ở hai bên, nằm giữa môi lớn và tiền đình âm đạo được gọi là môi bé hoặc mnymphae. Môi bé là vị trí cực kỳ nhạy cảm với nhiều thụ thể cảm giác và tổ chức mô liên kết có khả năng cương cứng, đây cũng là vị trí gây kích thích trong khi quan hệ tình dục. Môi bé có sự đa dạng về các biến thể giải phẫu (về chiều dài, độ dày, tính đối xứng, độ ‘nhô’ và hình chiếu của chúng). Hiếm khi, môi bé ‘nhô’ ra ngoài hơn 3cm so với bờ tự do của môi lớn và nếu vượt qua ranh giới này thì được gọi là môi bé phì đại, mất tiêu chuẩn về tính thẩm mỹ. Nguyên nhân của phì đại môi bé âm hộ có thể do nhiều yếu tố, bao gồm chứng phì đại bẩm sinh, và phì đại vô căn mắc phải do quan hệ hoặc có thể do thủ dâm, sinh con qua đường âm đạo, tắc nghẽn bạch huyết, phản ứng viêm (viêm da vùng kín), do chứng tiểu không tự chủ, do tăng cân hoặc do hor-mone androgen ngoại sinh.
Kỹ thuật rim look bản chất là cắt bỏ môi bé theo một đường cong dọc theo bờ tự do (phần tăng sắc tố nhiều nhất) để cải thiện tính cân đối và hình thể giải phẫu của chúng. Còn kỹ thuật hybrid look đề cập đến một phương pháp tiếp cận từ đường giữa, liên quan đến việc loại bỏ gần như toàn bộ môi bé và bảo tồn một lượng mô nhỏ (ngay dưới môi lớn), một hình thể được coi là giải phẫu tiêu chuẩn. Có thể thực hiện một đường cắt chính xác qua tổ chức niêm mạc môi bé bằng cách sử dụng 1 đầu RF. Tuy nhiên kỹ thuật nêm thì không thể loại bỏ chính xác phần tổ chức dư thừa ước đoán như kỹ thuật hybrid look.
Kỹ thuật Barbie look, tuy nhiên, trong một nghiên cứu trên 238 phụ nữ phẫu thuật giảm môi âm hộ, thì tới 98% tìm cách giảm môi bé xuống ngang bằng hoặc dưới môi lớn để thu được hình thể giải phẫu ‘tối ưu’. Trong khảo sát, trong số 200 bệnh nhân thì không có một ai muốn giữ lại phần bờ tự do ‘thừa’ và tăng sắc tố cả.
Thay vào đó, tất cả các bệnh nhân đều yêu cầu cắt bỏ, đặc biệt là vùng tăng sắc tố. Rất ít người yêu cầu bác sĩ phẫu thuật giữ lại phần bờ tự do tăng sắc tố ở môi bé. Trong nghiên cứu trên 550 phụ nữ, 97% muốn loại bỏ phần niêm mạc tăng sắc tố này và chỉ giữ lại phần niêm mạc màu hồng, và đặc biệt là sau khi cắt bỏ phần niêm mạc đó, phần bờ viền còn lại cũng mềm mại hơn.
Kỹ thuật Wedge nên được chỉ định cho những phụ nữ muốn giữ lại phần niêm mạc tăng sắc tố hoặc phần viền tự nhiên của môi bé. Tuy nhiên, việc cắt theo hình nêm toàn bộ tổ chức (kỹ thuật ban đầu) và kỹ thuật wedge sửa đổi sẽ giúp bảo tồn hệ thống mạch máu thần kinh, đường sẹo và tránh được việc cắt bỏ quá mức dẫn tới sẹo co kéo sau mổ.
Kỹ thuật wedge trung tâm mở rộng kết hợp với wedge bên ngoài (hockey stick V) nhằm mục đích loại bỏ phần mũ âm vật thừa hai bên (đôi khi gọi là tai chó). Cách tiếp cận này giúp giảm tỉ lệ tách mép vết mổ, tránh hình thành các xoang hoặc đường dò, giải quyết được phần mũ âm vật dư thừa và giảm đau sau phẫu thuật, mặc dù không phải tất cả khách hàng đều đến viện khám để bác sĩ có thống kê đầy đủ. Nhược điểm của các phẫu thuật tạo hình môi âm hộ ‘kiểu wedge’ này là cấp máu cho phần còn lại của môi thay đổi tùy theo phần hình nêm được cắt bỏ và sức căng đường khâu chủ yếu tập trung ở vùng bờ tự do. Tạo hình môi âm hộ kiểu wedge làm tăng nguy cơ chậm lành vết mổ, hình thành các lỗ ở môi bé (nếu bục chỉ) và các khoảng trống hình tam giác lộn ngược khi các mép vế mổ bị co kéo. Những biến chứng này chưa được báo cáo trong các trường hợp cắt thẳng (cắt cụt) được thực hiện bởi những bác sĩ có chuyên môn. Nên nhớ, hai bên môi âm hộ có thể thực hiện các kỹ thuật khác nhau tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng mỗi bên.